Bs.
Đinh Công Phúc- PGS.TS. Nguyễn Bắc Hùng
1. Đại cương
Bớt sắc tố (Nevus) với tổn thương chỉ tập trung ở vùng chi
phối của nhánh mắt và nhánh hàm trên của thần kinh V, lần đầu tiên được mô tả
bỡi hai bác sỹ da liễu người Nhật (1939) Ota và Tamino được gọi là bớt sắc tố
Ota. Đặc trưng của tổn thương là những dát màu xanh đen phẳng hay màu nâu-lam
xám hoà lẫn nhau hay những chấm màu nâu. Những mảng sắc tố này cũng thường thấy
ở củng mạc và niêm mạc mắt, niêm mạc miệng hay mũi. Trên hình ảnh mô bệnh học,
các tế bào melanin nằm trong toàn bộ bề dày của da [2,4].
Sau này, năm 1984 Hori và cộng sự mô tả một dạng bớt sắc tố với những mảng màu nâu xanh mắc phải ở mặt. Vị
trí hay gặp là trán, hai bên má, hai bên thái dương, hai bên mí mắt cánh mũi
hay mũi. Chúng thường xuất hiện trễ hơn bớt Ota, ở khoảng 40-50 tuổi, trên
người châu Á, ở nữ giới, không thấy xuất hiện ở niêm mạc mắt, miệng hay mũi. Về
mặt mô bệnh học, những tế bào melanin tập trung ở phần giữa và trên của da.
Dạng thái này gọi là bớt sắc tố Hori [1, 3, 5].
2. Đặc điểm
khác nhau của bớt sắc tố Ota và Hori
Đặc điểm khác biệt giữa bớt Ota và bớt Hori [5]
Tên
|
Ota
|
Hori
|
Vị
trí
|
Tập
trung vào vùng chi phối của nhánh mắt
và hàm trên của thần kinh V
Tế
bào melanin thấy cả ở da và niêm mạc
|
Tập
trung nhiều ở hai bên gò má
Sắc
tố dạng mảng mắc phải, ở cả hai bên
|
Khởi
bệnh
|
60%
lúc mới sinh, 40% tuổi dậy thì
|
Mắc
phải: 95% xuất hiện sau tuổi 15
|
Tỉ
lệ nữ/nam
|
4:1
|
21:1
|
Tính
chất gia đình
|
1%
|
18%
|
Phân
bố
|
Một
bên (90%)
|
Đối
xứng hai bên
|
Màu
sắc
|
Xanh,
xám hay nâu
|
Xám
đến nâu
|
Niêm
mạc
|
Mắt
(60->70%), vòm miệng (10-18%)
|
Không
|
Bệnh
kết hợp
|
Glocom,
viêm họng
|
Không
|
Mô
bệnh học
|
Melanin
phân bố ở toàn bộ da
|
Melanin
chỉ phân bố ở lớp giữa và nông của da
|
Quan
sát qua kính hiển vi điện tử
|
Tế
bào melanin phân tán trong melanosome giai đoạn IV của quá trình melanin hoá
|
Tế
bào melanin phân tán trong melanosome giai đoạn II-IV của quá trình melanin
hoá
|
Yếu
tố kích thích
|
Chấn
thương, stress, kinh nguyệt
|
Hocmon,
chấn thương, ánh sáng mặt trời.
|
3. Điều trị
Các phương pháp điều trị bớt Ota như: phẫu thuật cắt bỏ và
tạo hình bằng vạt da hay vá da rời, mài da, lột da bằng hoá chất và áp nitơ
lạnh thật ra không khả thi và có nguy cơ tạo sẹo cao. Trong thời gian gần đây,
các loại laser có khả năng điều trị thành công bớt Ota dựa vào nguyên lí phân
huỷ quang nhiệt chọn lọc của Aderson và Parish (1983). Theo lí thuyết này, khi
quang năng chuyển thành nhiệt năng để phá huỷ nhiệt chọn lọc trên mô đích thì
cần có 3 điều kiện sau:
1. Bước sóng của laser phải dạt
đến sự hấp thu của mô đích.
2. Thời gian xung hay thời gian
tiếp xúc trên mô phải nhỏ hơn thời gian tản nhiệt hay thời gian thải nhiệt trên
mô.
3. Mật độ năng lượng có khả năng
đạt đến để tạo ra sự phả huỷ bằng nhiệt trên mô đích tại nơi điều trị.
Các loại laser thường dùng hiện nay là Q-switched Nd:YAG (1064 nm/532 nm), Q-switched alexandrite (755 nm), Q-switched ruby (694 nm) [2, 4].
Mặc dù là một thể lâm sàng của bớt Ota, nhưng đã có nhiều
phương thức điều trị bớt Hori được báo cáo như:
mài da, áp nitơ lạnh, laser CO2, thậm chí không điều trị gì
mà chỉ hoá trang hay xăm hình nghệ thuật. Tất cả các phương pháp trên đều ít
mang lại kết quả thẩm mỹ, mà đặc biệt là BN không hài lòng với kết quả điều
trị. Vì mô bệnh học đã phát hiện melanin nằm trong da nên các loại laser
Q-switched có vai trò rất lớn trong việc điều trị bớt Hori như: Q-switched
Nd:YAG, Q-switched ruby. Tuy nhiên, khi điều trị Nevus Hori cũng cần phải kết
hợp thêm các hoá chất là trắng da như: hydroquinone, vitamin A acid và kem
chống nắng [1, 3, 5].
A. Trước điều tri B. Sau điều trị
Tài liệu tham
khảo
5. Niwat
Polnikol, Somsak Tanrattanakorn, David Goldberg (2000). Treatment of Hori’s
Nevus with the Q-Switched Nd:YAG laser. Dermatologic Surgery. Blackwell Science.
6.
Somyos
Kunachak, Panadda Leelaudomlipi (1999). Q-swicth
ruby laser therapy of acquired bilateral Nevus of Ota like macules.. American Society for Dermatologic Surgery.
Blackwell Publishing
0 nhận xét:
Đăng nhận xét